Ngoccup's Blog
Thứ Tư, 2 tháng 12, 2009
Thứ Ba, 1 tháng 12, 2009
Vẻ đẹp của cái chết (tt của bài Yamato)
Kết cục của trận chiến là phía Mỹ mất 10 chiếc máy bay cùng 12 phi công, để đổi lấy Yamato, Yahashi, 4 chiếc khu trục hạm cùng tính mạng của 4'500 thuỷ thủ và sĩ quan Nhật.
Và dù nói thế nào, thì với tư cách người lính, thì họ là những anh hùng.
Vì thế, tôi sẽ dịch lại bài phỏng vấn Naoyoshi Ishida, một người hùng sống sót của Yamato, do kênh truyền hình PBS thực hiện.
PBS: Ông nghĩ gì khi lần đầu thấy Yamato?
Ishida: Tôi nghĩ "sao nó lớn thế!". Khi bước vào, tôi thấy rất nhiều bảng chỉ dẫn đâu là mũi, đâu là đuôi tàu, vì nếu không chẳng ai biết được. Vài ngày đầu, tôi thậm chí không biết đường về khoang của mình. Mà ai cũng như thế cả.
PBS: Phục vụ trên tàu hẳn là một vinh dự?
Ishida: Vâng, tôi biết nó là một con tàu mạnh mẽ. Súng của nó cực lớn. Hồi đó tôi luôn muốn được đánh nhau với tàu chiến Mỹ ở Thái Bình Dương. Tôi cầu cho chuyện ấy xảy ra. Tôi cho rằng chúng tôi sẽ thắng, vì chúng tôi có thể bắn từ ngoài tầm của đối thủ.
PBS: Nhưng chung cuộc Yamato chưa bao giờ tham chiến với một chiếc tàu khác?
Ishida: Không. Chúng tôi không có cơ hội phô trương sức mạnh của mình.
PBS: Khi nhổ neo ở cảng Kure đi Okinawa, ông có cảm giác được là tàu của ông đang thực hiện sứ mạng cuối cùng?
Ishida: Chúng tôi không được chính thức biết là đang đi Okinawa. Đấy là bí mật quân sự. Nhưng chúng tôi biết Okinawa là nơi cuối cùng dành cho chúng tôi. Tôi còn biết rằng tàu không có đủ nhiên liệu để quay về Kure. Vì thế, tôi chắc đấy là hành trình cuối cùng.
PBS: Ông có được từ biệt gia đình mình?
Ishida: Chúng tôi có 3 ngày trên bờ để tạm biệt. Con trai đầu của tôi mới sinh vào ngày 12 tháng Ba. Tôi chỉ có một đêm nhìn mặt con khi nó sinh. Khi giã từ, tôi biết tôi sẽ không trở lại. Sau khi vợ tôi tiễn tôi tới cửa, tôi chờ cô ấy vào nhà rồi đi quanh nhà lần cuối, thầm tạm biệt ngôi nhà trước khi về tàu.
PBS: Ông có cho vợ biết về nhiệm vụ?
Ishida: Đương nhiên là không. Tôi không muốn cô ấy khóc. Do đây là nhiệm vụ mật, nên chúng tôi không được nói điều gì. Dù tôi thương vợ, tôi cũng không thể làm điều đó.
PBS: Lúc đó ông cảm thấy thế nào?
Ishida: Không thể nói bằng lời. Tôi cảm thấy khó chia tay với vợ hơn là với bố mẹ. Tôi thương cô ấy vô cùng. Tôi để lại bức thư cho bố mẹ, trong đó xin ông bà thứ lỗi cho tôi và mong hai người trường thọ. Nhưng làm sao tôi có thể viết một là thư như thế cho vợ? Nếu tôi viết, cô ấy sẽ khóc lớn. Tôi cũng thử viết, bắt đầu thế này "Em có thể lấy người khác, nhưng dù thế nào, cũng hãy nuôi con chúng ta thành người". Tôi còn nhớ câu ấy đến giờ. Tôi viết, rồi xé, rồi lại viết, rồi lại xé. Tôi không thể gửi vì biết cô ấy sẽ khóc rất nhiều.
PBS: Thế vợ ông có đoán được là ông sẽ không về?
Ishida: Có thể
PBS: Thế tại sao ông không để lại một lá thư? Như thế không tốt hơn sao?
Ishida: Tôi sẽ không thể chiến đấu khi nghĩ rằng vợ tôi đang đọc lá thư ấy và bật khóc. Suốt trận chiến, tôi nghĩ rằng tôi đã quyết định đúng. Cứ nghĩ rằng cô ấy đọc thư và đang khóc, thế là tôi cảm thấy may mắn là mình đã không viết lá thư ấy.
PBS: Kể cho tôi nghe bắt đầu từ khi rời cảng.
Ishida: Chúng tôi nhổ neo từ 3 giờ chiều, và ngay khi chúng tôi đi vào kênh Bungo, thì chỉ huy phó tập hợp tất cả chúng tôi trên mặt boong. Ông ấy mô tả nhiệm vụ sắp tới. Trên 2000 người đứng nghe. Rồi chúng tôi quay mặt về phía đông, cúi chào Hoàng Cung. Chúng tôi hát bài Kimigayo, bài quân ca mà chúng tôi vẫn thường hát:
Dù chúng ta sợ hãi,
Dù thời gian cận kề
Dù kẻ thù vô số,
Khí phách Yamato
vẫn tuôn trào...
[Yamato còn có nghĩa là Nhật Bản, chứ không chỉ là tên chiến hạm]
Hát xong, chúng tôi qua mặt về quê nhà và thầm nói lời vĩnh biệt với gia đình. Tất cả chúng tôi đều khóc và bắt tay nhau, nói với nhau rằng lần sau gặp nhau chúng tôi chỉ là những khúc xương trong đền Yasukuni. Rồi chúng tôi chia tay, tôi về vị trí của mình trên boong thượng. Đến giờ, mỗi khi nhớ tới giờ phút đó, nước mắt tôi vẫn còn chảy.
PBS: Điều gì quan trọng nhất đối với thuỷ thủ của Yamato? Hy sinh cho gia đình hay là cho đất nước?
Ishida: Mỗi người một khác - và ai cũng phải vật lộn với nó, nhất là những người có gia đình, có cha mẹ. Và ai cũng đau, nhưng theo cách khác nhau/
PBS: Tối đó có mở tiệc ha không?
Ishida: Có, chúng tôi được mở kho sake và bia. Chúng tôi nắm tay nối thành vòng tròn và cùng uống với nhau. Nhưng làm sao tôi có thể uống nổi?
PBS: Vậy chắc ông bồn chồn?
Ishida: Vâng, tất nhiên.
PBS: Ngày hôm sau, sáng mồng bảy, ông có nghĩ là cuộc tấn công sẽ tới?
Ishida: Sáng đó, chúng tôi thấy một chiếc máy bay trinh sát. Nó bay lẫn trong mây nên chúng tôi lúc thấy lúc không, vì thế chúng tôi không ngắm hướng được. Chúng tôi cũng không thể ước lượng được khoảng cách, nên chẳng bắn được phát nào. Tôi nhớ là thế.
PBS: Thế cuộc tấn công bắt đầu khi nào?
Ishida: Cuộc oanh kích tổng lực bắt đầu khoảng trưa. Tôi đang ở trên boong thượng, tôi chứng kiến tất cả. Bom rơi xuống như mưa, chúng tôi chỉ việc bắn thẳng lên trời. Cuộc oanh kích này kéo dài khoảng 15 phút.
PBS: Ông kể chi tiết hơn được không?
Ishida: Đạn súng máy đan thành lưới, nên máy bay không dễ thả bom vào chúng tôi. Tôi cũng muốn ném một viên đá vào đầu chúng nó, vì chúng rất gần. Tôi có thể thấy các phi công Mỹ bằng mắt thường. Sách nói đúng là các phi công Mỹ rất dũng cảm. Họ bay lẫn vào mây, rồi lao xuống xả súng vào chúng tôi. Tôi phải tránh đầu đạn bật ra từ giáp tàu. Nhiều người bị trúng mảnh, nằm lăn trên mặt boong.
PBS: Vậy ông cảm thấy thế nào? Có sợ không?
Ishida: Sợ và căm thù. Khi tôi lần đầu nhìn thấy chúng, tôi đếm được hai tốp khoảng 30 chiếc. Tôi cảm thấy đầu nóng lên, biết rằng "chúng đang tới, đang tới".
PBS: Sau đợt oanh kích đầu tiên thì thế nào nữa?
Ishida: Đợt thứ hai đến khoảng sau hai tiếng (nguồn chính xác chỉ khoảng 1 tiếng). Trong khoàng thời gian đó, chúng tôi phải đứng yên chờ ở vị trí. Tôi cũng phải đứng bất động như thế. Thời gian chờ đợi dài như vô tận. Tôi chỉ nghĩ rằng "mình sẽ là người kế tiếp. Mình đã thấy nhiều người ra đi, giờ có lẽ đến lượt mình đây". Đấy là những giây phút cực kỳ cô đơn ngay giữa trận chiến.
PBS: Lúc đó ông có tin là Yamato sẽ thắng hay không?
Ishida: Tôi biết chúng tôi không thể thắng, nhưng tôi không ngờ là bị đánh đắm nhanh đến thế. Khi tấn công, máy bay Mỹ lao xuống từ những đám mây. Chúng biết cách lợi dụng thời tiết. Giá như hôm đó trời không có mây... vâng, chắc chúng tôi cũng chìm, nhưng chúng tôi đã không sớm bó tay trước 200 - 300 máy bay địch như thế.
PBS: Biết rằng không thể thắng, vậy ông có thấy tức tưởi đối với các sĩ quan ở Bộ chỉ huy hay không? Vì họ đang đưa ông vào chỗ chết?
Ishida: Không, tôi không nghĩ thế bao giờ. Đấy là giáo dục truyền thống của Nhật, khởi đầu của Khí phách Nhật.
PBS: Ông có thể giải thích về khí phách này?
Ishida: Nếu chúng tôi thua, chúng tôi sẽ chiến đấu đến tận lực, với mọi thứ có thể. Đó là Khí phách Nhật. Nếu chúng tôi bị thương, chúng tôi vẫn gắng cầm cự cho đến khi không cầm cự nổi. Chỉ khi đó, chúng tôi mới trao vị trí cho đồng đội và xuống boong.
PBS: Ông nghĩ rằng cái chết có vẻ đẹp?
Ishida: Vâng, đó là điều mà chúng tôi được dạy. Những người trẻ sau này không được giáo dục như thế, nhưng chúng tôi thuộc thế hệ Meiji, nên được giáo dục theo tinh thần truyền thống. Bạn phải hy sinh mình cho người khác. Ở đại học, có một bài test thế này "nếu con của bạn và con của người khác đang chìm, bạn phải cứu ai trước?". Giờ đây, đương nhiên là phải cứu con mình, nhưng hồi đó, câu trả lời đúng là cứu con của người khác. Có lẽ người thời nay sẽ cười, đúng không nào?
PBS: Ông nghĩ thế nào về cái chết của mình? Hiến dâng cho tổ quốc?
Ishida: Vâng, cho Tổ quốc. Khi tôi gia nhập Hải quân, tôi đã chuẩn bị chết một ngày nào đó. nhưng khi đối diện với cái chết của mình, cảm xúc của tôi trở nên phức tạp. Tôi lo cho tương lai của vợ và con mình. Đấy là những điều choán tâm trí tôi nhiều nhất.
ngoccup - xcafevn
Và dù nói thế nào, thì với tư cách người lính, thì họ là những anh hùng.
Vì thế, tôi sẽ dịch lại bài phỏng vấn Naoyoshi Ishida, một người hùng sống sót của Yamato, do kênh truyền hình PBS thực hiện.
PBS: Ông nghĩ gì khi lần đầu thấy Yamato?
Ishida: Tôi nghĩ "sao nó lớn thế!". Khi bước vào, tôi thấy rất nhiều bảng chỉ dẫn đâu là mũi, đâu là đuôi tàu, vì nếu không chẳng ai biết được. Vài ngày đầu, tôi thậm chí không biết đường về khoang của mình. Mà ai cũng như thế cả.
PBS: Phục vụ trên tàu hẳn là một vinh dự?
Ishida: Vâng, tôi biết nó là một con tàu mạnh mẽ. Súng của nó cực lớn. Hồi đó tôi luôn muốn được đánh nhau với tàu chiến Mỹ ở Thái Bình Dương. Tôi cầu cho chuyện ấy xảy ra. Tôi cho rằng chúng tôi sẽ thắng, vì chúng tôi có thể bắn từ ngoài tầm của đối thủ.
PBS: Nhưng chung cuộc Yamato chưa bao giờ tham chiến với một chiếc tàu khác?
Ishida: Không. Chúng tôi không có cơ hội phô trương sức mạnh của mình.
PBS: Khi nhổ neo ở cảng Kure đi Okinawa, ông có cảm giác được là tàu của ông đang thực hiện sứ mạng cuối cùng?
Ishida: Chúng tôi không được chính thức biết là đang đi Okinawa. Đấy là bí mật quân sự. Nhưng chúng tôi biết Okinawa là nơi cuối cùng dành cho chúng tôi. Tôi còn biết rằng tàu không có đủ nhiên liệu để quay về Kure. Vì thế, tôi chắc đấy là hành trình cuối cùng.
PBS: Ông có được từ biệt gia đình mình?
Ishida: Chúng tôi có 3 ngày trên bờ để tạm biệt. Con trai đầu của tôi mới sinh vào ngày 12 tháng Ba. Tôi chỉ có một đêm nhìn mặt con khi nó sinh. Khi giã từ, tôi biết tôi sẽ không trở lại. Sau khi vợ tôi tiễn tôi tới cửa, tôi chờ cô ấy vào nhà rồi đi quanh nhà lần cuối, thầm tạm biệt ngôi nhà trước khi về tàu.
PBS: Ông có cho vợ biết về nhiệm vụ?
Ishida: Đương nhiên là không. Tôi không muốn cô ấy khóc. Do đây là nhiệm vụ mật, nên chúng tôi không được nói điều gì. Dù tôi thương vợ, tôi cũng không thể làm điều đó.
PBS: Lúc đó ông cảm thấy thế nào?
Ishida: Không thể nói bằng lời. Tôi cảm thấy khó chia tay với vợ hơn là với bố mẹ. Tôi thương cô ấy vô cùng. Tôi để lại bức thư cho bố mẹ, trong đó xin ông bà thứ lỗi cho tôi và mong hai người trường thọ. Nhưng làm sao tôi có thể viết một là thư như thế cho vợ? Nếu tôi viết, cô ấy sẽ khóc lớn. Tôi cũng thử viết, bắt đầu thế này "Em có thể lấy người khác, nhưng dù thế nào, cũng hãy nuôi con chúng ta thành người". Tôi còn nhớ câu ấy đến giờ. Tôi viết, rồi xé, rồi lại viết, rồi lại xé. Tôi không thể gửi vì biết cô ấy sẽ khóc rất nhiều.
PBS: Thế vợ ông có đoán được là ông sẽ không về?
Ishida: Có thể
PBS: Thế tại sao ông không để lại một lá thư? Như thế không tốt hơn sao?
Ishida: Tôi sẽ không thể chiến đấu khi nghĩ rằng vợ tôi đang đọc lá thư ấy và bật khóc. Suốt trận chiến, tôi nghĩ rằng tôi đã quyết định đúng. Cứ nghĩ rằng cô ấy đọc thư và đang khóc, thế là tôi cảm thấy may mắn là mình đã không viết lá thư ấy.
PBS: Kể cho tôi nghe bắt đầu từ khi rời cảng.
Ishida: Chúng tôi nhổ neo từ 3 giờ chiều, và ngay khi chúng tôi đi vào kênh Bungo, thì chỉ huy phó tập hợp tất cả chúng tôi trên mặt boong. Ông ấy mô tả nhiệm vụ sắp tới. Trên 2000 người đứng nghe. Rồi chúng tôi quay mặt về phía đông, cúi chào Hoàng Cung. Chúng tôi hát bài Kimigayo, bài quân ca mà chúng tôi vẫn thường hát:
Dù chúng ta sợ hãi,
Dù thời gian cận kề
Dù kẻ thù vô số,
Khí phách Yamato
vẫn tuôn trào...
[Yamato còn có nghĩa là Nhật Bản, chứ không chỉ là tên chiến hạm]
Hát xong, chúng tôi qua mặt về quê nhà và thầm nói lời vĩnh biệt với gia đình. Tất cả chúng tôi đều khóc và bắt tay nhau, nói với nhau rằng lần sau gặp nhau chúng tôi chỉ là những khúc xương trong đền Yasukuni. Rồi chúng tôi chia tay, tôi về vị trí của mình trên boong thượng. Đến giờ, mỗi khi nhớ tới giờ phút đó, nước mắt tôi vẫn còn chảy.
PBS: Điều gì quan trọng nhất đối với thuỷ thủ của Yamato? Hy sinh cho gia đình hay là cho đất nước?
Ishida: Mỗi người một khác - và ai cũng phải vật lộn với nó, nhất là những người có gia đình, có cha mẹ. Và ai cũng đau, nhưng theo cách khác nhau/
PBS: Tối đó có mở tiệc ha không?
Ishida: Có, chúng tôi được mở kho sake và bia. Chúng tôi nắm tay nối thành vòng tròn và cùng uống với nhau. Nhưng làm sao tôi có thể uống nổi?
PBS: Vậy chắc ông bồn chồn?
Ishida: Vâng, tất nhiên.
PBS: Ngày hôm sau, sáng mồng bảy, ông có nghĩ là cuộc tấn công sẽ tới?
Ishida: Sáng đó, chúng tôi thấy một chiếc máy bay trinh sát. Nó bay lẫn trong mây nên chúng tôi lúc thấy lúc không, vì thế chúng tôi không ngắm hướng được. Chúng tôi cũng không thể ước lượng được khoảng cách, nên chẳng bắn được phát nào. Tôi nhớ là thế.
PBS: Thế cuộc tấn công bắt đầu khi nào?
Ishida: Cuộc oanh kích tổng lực bắt đầu khoảng trưa. Tôi đang ở trên boong thượng, tôi chứng kiến tất cả. Bom rơi xuống như mưa, chúng tôi chỉ việc bắn thẳng lên trời. Cuộc oanh kích này kéo dài khoảng 15 phút.
PBS: Ông kể chi tiết hơn được không?
Ishida: Đạn súng máy đan thành lưới, nên máy bay không dễ thả bom vào chúng tôi. Tôi cũng muốn ném một viên đá vào đầu chúng nó, vì chúng rất gần. Tôi có thể thấy các phi công Mỹ bằng mắt thường. Sách nói đúng là các phi công Mỹ rất dũng cảm. Họ bay lẫn vào mây, rồi lao xuống xả súng vào chúng tôi. Tôi phải tránh đầu đạn bật ra từ giáp tàu. Nhiều người bị trúng mảnh, nằm lăn trên mặt boong.
PBS: Vậy ông cảm thấy thế nào? Có sợ không?
Ishida: Sợ và căm thù. Khi tôi lần đầu nhìn thấy chúng, tôi đếm được hai tốp khoảng 30 chiếc. Tôi cảm thấy đầu nóng lên, biết rằng "chúng đang tới, đang tới".
PBS: Sau đợt oanh kích đầu tiên thì thế nào nữa?
Ishida: Đợt thứ hai đến khoảng sau hai tiếng (nguồn chính xác chỉ khoảng 1 tiếng). Trong khoàng thời gian đó, chúng tôi phải đứng yên chờ ở vị trí. Tôi cũng phải đứng bất động như thế. Thời gian chờ đợi dài như vô tận. Tôi chỉ nghĩ rằng "mình sẽ là người kế tiếp. Mình đã thấy nhiều người ra đi, giờ có lẽ đến lượt mình đây". Đấy là những giây phút cực kỳ cô đơn ngay giữa trận chiến.
PBS: Lúc đó ông có tin là Yamato sẽ thắng hay không?
Ishida: Tôi biết chúng tôi không thể thắng, nhưng tôi không ngờ là bị đánh đắm nhanh đến thế. Khi tấn công, máy bay Mỹ lao xuống từ những đám mây. Chúng biết cách lợi dụng thời tiết. Giá như hôm đó trời không có mây... vâng, chắc chúng tôi cũng chìm, nhưng chúng tôi đã không sớm bó tay trước 200 - 300 máy bay địch như thế.
PBS: Biết rằng không thể thắng, vậy ông có thấy tức tưởi đối với các sĩ quan ở Bộ chỉ huy hay không? Vì họ đang đưa ông vào chỗ chết?
Ishida: Không, tôi không nghĩ thế bao giờ. Đấy là giáo dục truyền thống của Nhật, khởi đầu của Khí phách Nhật.
PBS: Ông có thể giải thích về khí phách này?
Ishida: Nếu chúng tôi thua, chúng tôi sẽ chiến đấu đến tận lực, với mọi thứ có thể. Đó là Khí phách Nhật. Nếu chúng tôi bị thương, chúng tôi vẫn gắng cầm cự cho đến khi không cầm cự nổi. Chỉ khi đó, chúng tôi mới trao vị trí cho đồng đội và xuống boong.
PBS: Ông nghĩ rằng cái chết có vẻ đẹp?
Ishida: Vâng, đó là điều mà chúng tôi được dạy. Những người trẻ sau này không được giáo dục như thế, nhưng chúng tôi thuộc thế hệ Meiji, nên được giáo dục theo tinh thần truyền thống. Bạn phải hy sinh mình cho người khác. Ở đại học, có một bài test thế này "nếu con của bạn và con của người khác đang chìm, bạn phải cứu ai trước?". Giờ đây, đương nhiên là phải cứu con mình, nhưng hồi đó, câu trả lời đúng là cứu con của người khác. Có lẽ người thời nay sẽ cười, đúng không nào?
PBS: Ông nghĩ thế nào về cái chết của mình? Hiến dâng cho tổ quốc?
Ishida: Vâng, cho Tổ quốc. Khi tôi gia nhập Hải quân, tôi đã chuẩn bị chết một ngày nào đó. nhưng khi đối diện với cái chết của mình, cảm xúc của tôi trở nên phức tạp. Tôi lo cho tương lai của vợ và con mình. Đấy là những điều choán tâm trí tôi nhiều nhất.
ngoccup - xcafevn
Thứ Hai, 30 tháng 11, 2009
Yamato - Thiết giáp hạm lớn nhất mọi thời đại
1. Lịch sử ra đời của Yamato:
Sau Thế Chiến I, các cường quốc đã ký vào một thoả ước hạn chế phát triển Hải quân - thoả ước Washington Naval Treaty. Theo thoả ước này, mỗi nước chỉ được phát triển một số tàu chiến trong quota nhất định, thậm chí số pháo và kích cỡ đạn pháo cũng bị hạn chế. Nhật và Đức là 2 nước cảm thấy bất công nhất, khi quota của mỗi nước chỉ bằng phân nửa của Hoa Kỳ và Anh.
Để lách Hiệp ước, Nhật đưa ra kế hoạch đóng những chiếc tàu thật lớn, lấy lượng choán nước bù cho hạn chế số lượng. Và thế là lớp tàu Yamato ra đời, với lượng choán nước tới 73'000 tấn, lớn nhất thế giới hồi bấy giờ.
Lớp tàu này ban đầu dự tính là 5 chiếc, nhưng chỉ có 2 chiếc hoàn thành là Yamato và Musashi. Chiếc thứ 3 - Shinano - đang đóng dở thì Nhật thua trận Midway, và nhận thấy Không quân có quá nhiều ưu thế trong hải chiến, nên Shinano được cải biến thành Hàng không mẫu hạm.
2. Thiết kế tàu, pháo và giáp:
Với dự kiến hoả lực của tàu phải hoàn toàn áp đảo mọi đối thủ trên biển, nên sau nhiều cân nhắc, cuối cùng dàn pháo 460 mm, tầm bắn xa đến 42 km, mỗi viên đạn nặng tới 1'460 kg được chọn làm pháo chính cho tàu.
Nhằm đảo bảo mật độ đạn có thể phủ được một diện tích mục tiêu 300x300 trong ba loạt bắn, nên số pháo chính được tính là 9 khẩu, làm thành 3 tháp pháo 3 nòng. Ngoài số pháo chính này, Yamato còn có 6 khẩu 155 mm, 12 khẩu 125 mm. Tàu được bảo vệ bởi 24 nòng phòng không 25 mm và 13 khẩu đại liên 12.8 mm.
Do lực giật của các khẩu pháo chính đã rất lớn, mà còn phải cộng thêm lực giật của toàn bộ khẩu pháo phụ, nên để tàu chịu được lực giật ngang của nguyên dàn, Yamato phải có chiều rộng tới 40m, và tương ứng là dài tới 263m.
Với kích thước lớn như vậy, lượng giáp được dùng cho tàu cũng rất lớn. Đai giáp thấp (dưới mặt nước) của tàu cũng là cơ cấu chịu lực, dày tới 410 mm, viền ngoài lớp giáp chung 355 mm. Độ dày giáp này cho phép chịu được ngư lôi tới 410 kg TNT. Trong khi đó, giáp bọc tháp pháo còn dày hơn, tới 650 mm, khiến mỗi tháp pháo chính nặng tới 3'000 tấn.
Tàu có 2 điểm tiến bộ về thiết kế so với thời ấy: thiết kế mũi nhọn dưới nước cho phép giảm lực cản tới 8%, và bánh lái đơn dưới đáy tàu cho phép bán kính quay của tàu chỉ là 640 m (so với 800 m của Iowa của Mỹ, loại tàu nhỏ hơn nhiều).
3. Đời binh nghiệp của Yamato:
Chiếc Yamato được đóng từ năm 1937, và đến năm 1941 hoàn thành. Sau giai đoạn thử nghiệm, Yamato chính thức được đưa vào phục vụ với vai trò là soái hạm của Hạm đội liên hợp Nhật Hoàng dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Isoroku Yamamoto (một chỉ huy hàng đầu của quân đội Nhật Bản thời bấy giờ, cũng là người chỉ huy kế hoạch đánh Pearl Habour).
Là soái hạm, nên Yamato ít có cơ hội tham chiến, mà chủ yếu nằm trong cảng Truk, Kure và vài cảng khác của Hạm đội, đến nỗi binh lính và sĩ quan của Hải quân Nhật gọi nó là "Khách sạn Yamato". Đến khi được điều sang vai trò chuyển quân, Yamato mới có cơ hội chạm súng đầu tiên cuối tháng 12 1943. Không may là trên đường tới Phillipin, nó bị tàu ngầum USS Skate bắn trúng 2 phát ngư lôi vào mạn sau, lại phải về cảng Truk để sửa chữa.
Đến tháng 6/1944, Yamato mới được tham gia trận chiến Biển Philippin, tuy nhiên cũng chỉ được đứng ngoài nhìn 3 chiếc HKMH cùng phe bị đánh chìm cùng với hơn 500 máy bay. Đến tháng 9/1944, khi di chuyển cùng Hạm đội Trung tâm tới Vịnh Leyte, thì hạm đội bị tàu ngầm Mỹ chặn đánh ở eo Palawan. Vì soái hạm Atago, bị đánh đắm, nên Yamato lần nữa được cắm cờ soái. Đến trận tiếp theo ở biển Sibuyan, thì trong khi chiếc Musashi cùng lớp bị đánh đắm, thì Yamato bị dính 3 quả bom xuyên từ máy bay của HKMH USS Essex, lại phải về cảng sửa chữa.
3. Cú Kamikaze cuối cùng:
Từ trận Hải chiến Biển Philipin, Hải quân Nhật đã mất một nửa số HKMH, và đến trận vịnh Leyte thì coi như toàn bộ hạm đội Nhật đã không còn máy bay để che đầu nữa. Vì lý do đưa các tàu chiến ra khơi quá rủi ro, nên Yamato đành chịu số phận nằm cảng, làm khách sạn của mình.
Trong suốt mùa xuân và mùa hè 1945, nước Nhật bắt đầu rơi vào trạng thái tuyệt vọng. Để làm chậm bước tiến chắc chắn của Đồng Minh, không quân Nhật đã chuyển qua dùng chiến thuật Kamikaze. Và cứ mỗi phi công bay đi, được chúc phúc bằng một chén rượu và sau đó có tên trên đài phát thanh, để được ca ngợi là một anh hùng.
Ngày 1/4/1945, Okinawa bị chiếm. Lúc này, Hải quân Nhật chỉ còn lại một chiếc tàu lớn đáng kể là Yamato. Dưới áp lực hy sinh của Không quân, Bộ chỉ huy Hải Quân Nhật cũng phải có hành động tương tự. Và thế là Yamato được quyết định sẽ là cú Kamikaze cuối cùng... Chiến dịch Ten-Go.
Tối ngày 6/4, sau nghi thức quốc ca và bữa rượu tiễn biệt, Yamato nhổ neo cùng với chiếc hộ tống hạm Yahagi và 8 chiếc khu trục hạm khác, nhắm hướng Okinawa tiến tới. Trong đêm, 3'000 thuỷ thủ và sĩ quan, trừ một nhóm trực, được uống sake suốt đêm và hò hát. Họ biết rõ chuyện gì đang chờ đợi.
Sáng ngày 7/4, khi vừa tới đầu vịnh Ryuku, họ bị máy bay của Hải quân Mỹ phát hiện. Người Mỹ dự đoán được ý đồ của nhóm tàu, và chuẩn bị quây đánh bằng 11 chiếc HKMH cùng vài chục chiếc tàu hỗ trợ.
Lúc 12:30 trưa cùng ngày, khi nhóm tàu Yamato còn cách Hạm đội Mỹ tới 300 km, thì đợt không kích đầu tiên bắt đầu. Với hơn 400 máy bay và hoàn toàn không phải đối đầu với một chiếc máy bay nào, người Mỹ đặt tự do áp đặt cách đánh.
Để đối lại, Yamato không có cách nào hơn là tăng tốc độ lên 25 knots, vừa tìm cách cơ động tránh bom, vừa cố gắng đáp trả bằng các khẩu đội phòng không của mình hy vọng là tới gần Hạm đội Mỹ để khai hoả các khẩu 460 mm không lồ của mình trước khi thất bại hoàn toàn.
Bằng máy bay, người Mỹ đặt mục tiêu tách nhóm tàu Yamato ra, hạ những chiếc khu trục hộ tống trước, sau đó đánh sập các khẩu đội phòng không và cuối cùng là kết liễu Yamato.
Lúc 12:45, chiếc Yahagi bị bắn vào khoang máy và sau đó dính liền 6 quả ngư lôi thả từ máy bay. Cùng thời gian, hai chiếc khu trục hạm Hamakaze bị Suzutsuki bị đánh hỏng. Yamato, mặc dù rất cố gắng cơ động, nhưng cũng bị dính vài chục quả bom trên mặt boong. Nhờ lớp giáp của mình, chỉ có 2 quả xuyên thép gây thiệt hại ít nhiều.
Đến 13:20, sau khi đã khử xong các tàu đi kèm, các máy bay Mỹ tập trung quây đánh Yamato. Trong đợt oanh kích này, Yamato bị dính 15 quả bom xuyên cùng với 8 quả ngư lôi. Đáng kể nhất trong đó là một quả đánh sập khoang chỉ huy phòng không, và từ đây các khẩu đội của Yamato phải tự ứng chiến, không còn tạo thành lưới lửa chiến thuật như lúc đầu nữa, nên giảm hiệu quả rõ rệt.
Đến 13:30, khoang điều khiển cân bằng tàu bị bom đục xuyên vào. Vì thế, khi bị dính một quả ngư lôi vào mạn trước ngay sau đó, thì nó không tự xả nước cân bằng được nữa. Thế là nước tràn vào một khoang trước, kéo mũi tàu chúi xuống. Để tránh bị chìm, chỉ huy tàu đành cho xả nước vào khoang máy phía sau, khiến toàn bộ thuỷ thủ trong khoang này chết chìm, còn tàu trở thành mục tiêu cố định.
Từ đây, các máy bay Mỹ tập trung đánh bằng ngư lôi vào mạn dưới, nơi giáp mỏng nhất, và cuối cùng một quả ngư lôi đã đục thủng thành công một khoang hông. Tàu bị vào nước, và vì không có khả năng cân bằng được nữa, nó từ từ bị kéo nghiêng sang một bên. Đến 14:20, nó lật ngửa trên mặt nước. Những khẩu pháo 3'000 tấn rơi ra khỏi tàu, đạn rơi khỏi khoang và bị kích nổ. Lúc 14:23, một hình nấm lớn bung lên từ con tàu, cắt nó thành 2 mảnh. Vụ nổ lớn đến nỗi 2 chiếc máy bay Mỹ quan sát trên đầu bốc cháy theo.
Sau khi đánh chìm Yamato, các máy bay Mỹ bỏ đi. Ba chiếc khu trục hạm còn lại, tuy bị hỏng, nhưng còn vớt được 280 thuỷ thủ sống sót của Yamato và quay về. Những người này, vì đã không hy sinh trong chiến trận, đã bị đối xử như tù binh sau đó.
Và Yamato, từ niềm tự hào Nhật Bản, trở thành quốc tang.
ngoccup - xcafevn
Sau Thế Chiến I, các cường quốc đã ký vào một thoả ước hạn chế phát triển Hải quân - thoả ước Washington Naval Treaty. Theo thoả ước này, mỗi nước chỉ được phát triển một số tàu chiến trong quota nhất định, thậm chí số pháo và kích cỡ đạn pháo cũng bị hạn chế. Nhật và Đức là 2 nước cảm thấy bất công nhất, khi quota của mỗi nước chỉ bằng phân nửa của Hoa Kỳ và Anh.
Để lách Hiệp ước, Nhật đưa ra kế hoạch đóng những chiếc tàu thật lớn, lấy lượng choán nước bù cho hạn chế số lượng. Và thế là lớp tàu Yamato ra đời, với lượng choán nước tới 73'000 tấn, lớn nhất thế giới hồi bấy giờ.
Lớp tàu này ban đầu dự tính là 5 chiếc, nhưng chỉ có 2 chiếc hoàn thành là Yamato và Musashi. Chiếc thứ 3 - Shinano - đang đóng dở thì Nhật thua trận Midway, và nhận thấy Không quân có quá nhiều ưu thế trong hải chiến, nên Shinano được cải biến thành Hàng không mẫu hạm.
2. Thiết kế tàu, pháo và giáp:
Với dự kiến hoả lực của tàu phải hoàn toàn áp đảo mọi đối thủ trên biển, nên sau nhiều cân nhắc, cuối cùng dàn pháo 460 mm, tầm bắn xa đến 42 km, mỗi viên đạn nặng tới 1'460 kg được chọn làm pháo chính cho tàu.
Nhằm đảo bảo mật độ đạn có thể phủ được một diện tích mục tiêu 300x300 trong ba loạt bắn, nên số pháo chính được tính là 9 khẩu, làm thành 3 tháp pháo 3 nòng. Ngoài số pháo chính này, Yamato còn có 6 khẩu 155 mm, 12 khẩu 125 mm. Tàu được bảo vệ bởi 24 nòng phòng không 25 mm và 13 khẩu đại liên 12.8 mm.
Do lực giật của các khẩu pháo chính đã rất lớn, mà còn phải cộng thêm lực giật của toàn bộ khẩu pháo phụ, nên để tàu chịu được lực giật ngang của nguyên dàn, Yamato phải có chiều rộng tới 40m, và tương ứng là dài tới 263m.
Với kích thước lớn như vậy, lượng giáp được dùng cho tàu cũng rất lớn. Đai giáp thấp (dưới mặt nước) của tàu cũng là cơ cấu chịu lực, dày tới 410 mm, viền ngoài lớp giáp chung 355 mm. Độ dày giáp này cho phép chịu được ngư lôi tới 410 kg TNT. Trong khi đó, giáp bọc tháp pháo còn dày hơn, tới 650 mm, khiến mỗi tháp pháo chính nặng tới 3'000 tấn.
Tàu có 2 điểm tiến bộ về thiết kế so với thời ấy: thiết kế mũi nhọn dưới nước cho phép giảm lực cản tới 8%, và bánh lái đơn dưới đáy tàu cho phép bán kính quay của tàu chỉ là 640 m (so với 800 m của Iowa của Mỹ, loại tàu nhỏ hơn nhiều).
3. Đời binh nghiệp của Yamato:
Chiếc Yamato được đóng từ năm 1937, và đến năm 1941 hoàn thành. Sau giai đoạn thử nghiệm, Yamato chính thức được đưa vào phục vụ với vai trò là soái hạm của Hạm đội liên hợp Nhật Hoàng dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Isoroku Yamamoto (một chỉ huy hàng đầu của quân đội Nhật Bản thời bấy giờ, cũng là người chỉ huy kế hoạch đánh Pearl Habour).
Là soái hạm, nên Yamato ít có cơ hội tham chiến, mà chủ yếu nằm trong cảng Truk, Kure và vài cảng khác của Hạm đội, đến nỗi binh lính và sĩ quan của Hải quân Nhật gọi nó là "Khách sạn Yamato". Đến khi được điều sang vai trò chuyển quân, Yamato mới có cơ hội chạm súng đầu tiên cuối tháng 12 1943. Không may là trên đường tới Phillipin, nó bị tàu ngầum USS Skate bắn trúng 2 phát ngư lôi vào mạn sau, lại phải về cảng Truk để sửa chữa.
Đến tháng 6/1944, Yamato mới được tham gia trận chiến Biển Philippin, tuy nhiên cũng chỉ được đứng ngoài nhìn 3 chiếc HKMH cùng phe bị đánh chìm cùng với hơn 500 máy bay. Đến tháng 9/1944, khi di chuyển cùng Hạm đội Trung tâm tới Vịnh Leyte, thì hạm đội bị tàu ngầm Mỹ chặn đánh ở eo Palawan. Vì soái hạm Atago, bị đánh đắm, nên Yamato lần nữa được cắm cờ soái. Đến trận tiếp theo ở biển Sibuyan, thì trong khi chiếc Musashi cùng lớp bị đánh đắm, thì Yamato bị dính 3 quả bom xuyên từ máy bay của HKMH USS Essex, lại phải về cảng sửa chữa.
3. Cú Kamikaze cuối cùng:
Từ trận Hải chiến Biển Philipin, Hải quân Nhật đã mất một nửa số HKMH, và đến trận vịnh Leyte thì coi như toàn bộ hạm đội Nhật đã không còn máy bay để che đầu nữa. Vì lý do đưa các tàu chiến ra khơi quá rủi ro, nên Yamato đành chịu số phận nằm cảng, làm khách sạn của mình.
Trong suốt mùa xuân và mùa hè 1945, nước Nhật bắt đầu rơi vào trạng thái tuyệt vọng. Để làm chậm bước tiến chắc chắn của Đồng Minh, không quân Nhật đã chuyển qua dùng chiến thuật Kamikaze. Và cứ mỗi phi công bay đi, được chúc phúc bằng một chén rượu và sau đó có tên trên đài phát thanh, để được ca ngợi là một anh hùng.
Ngày 1/4/1945, Okinawa bị chiếm. Lúc này, Hải quân Nhật chỉ còn lại một chiếc tàu lớn đáng kể là Yamato. Dưới áp lực hy sinh của Không quân, Bộ chỉ huy Hải Quân Nhật cũng phải có hành động tương tự. Và thế là Yamato được quyết định sẽ là cú Kamikaze cuối cùng... Chiến dịch Ten-Go.
Tối ngày 6/4, sau nghi thức quốc ca và bữa rượu tiễn biệt, Yamato nhổ neo cùng với chiếc hộ tống hạm Yahagi và 8 chiếc khu trục hạm khác, nhắm hướng Okinawa tiến tới. Trong đêm, 3'000 thuỷ thủ và sĩ quan, trừ một nhóm trực, được uống sake suốt đêm và hò hát. Họ biết rõ chuyện gì đang chờ đợi.
Sáng ngày 7/4, khi vừa tới đầu vịnh Ryuku, họ bị máy bay của Hải quân Mỹ phát hiện. Người Mỹ dự đoán được ý đồ của nhóm tàu, và chuẩn bị quây đánh bằng 11 chiếc HKMH cùng vài chục chiếc tàu hỗ trợ.
Lúc 12:30 trưa cùng ngày, khi nhóm tàu Yamato còn cách Hạm đội Mỹ tới 300 km, thì đợt không kích đầu tiên bắt đầu. Với hơn 400 máy bay và hoàn toàn không phải đối đầu với một chiếc máy bay nào, người Mỹ đặt tự do áp đặt cách đánh.
Để đối lại, Yamato không có cách nào hơn là tăng tốc độ lên 25 knots, vừa tìm cách cơ động tránh bom, vừa cố gắng đáp trả bằng các khẩu đội phòng không của mình hy vọng là tới gần Hạm đội Mỹ để khai hoả các khẩu 460 mm không lồ của mình trước khi thất bại hoàn toàn.
Bằng máy bay, người Mỹ đặt mục tiêu tách nhóm tàu Yamato ra, hạ những chiếc khu trục hộ tống trước, sau đó đánh sập các khẩu đội phòng không và cuối cùng là kết liễu Yamato.
Lúc 12:45, chiếc Yahagi bị bắn vào khoang máy và sau đó dính liền 6 quả ngư lôi thả từ máy bay. Cùng thời gian, hai chiếc khu trục hạm Hamakaze bị Suzutsuki bị đánh hỏng. Yamato, mặc dù rất cố gắng cơ động, nhưng cũng bị dính vài chục quả bom trên mặt boong. Nhờ lớp giáp của mình, chỉ có 2 quả xuyên thép gây thiệt hại ít nhiều.
Đến 13:20, sau khi đã khử xong các tàu đi kèm, các máy bay Mỹ tập trung quây đánh Yamato. Trong đợt oanh kích này, Yamato bị dính 15 quả bom xuyên cùng với 8 quả ngư lôi. Đáng kể nhất trong đó là một quả đánh sập khoang chỉ huy phòng không, và từ đây các khẩu đội của Yamato phải tự ứng chiến, không còn tạo thành lưới lửa chiến thuật như lúc đầu nữa, nên giảm hiệu quả rõ rệt.
Đến 13:30, khoang điều khiển cân bằng tàu bị bom đục xuyên vào. Vì thế, khi bị dính một quả ngư lôi vào mạn trước ngay sau đó, thì nó không tự xả nước cân bằng được nữa. Thế là nước tràn vào một khoang trước, kéo mũi tàu chúi xuống. Để tránh bị chìm, chỉ huy tàu đành cho xả nước vào khoang máy phía sau, khiến toàn bộ thuỷ thủ trong khoang này chết chìm, còn tàu trở thành mục tiêu cố định.
Từ đây, các máy bay Mỹ tập trung đánh bằng ngư lôi vào mạn dưới, nơi giáp mỏng nhất, và cuối cùng một quả ngư lôi đã đục thủng thành công một khoang hông. Tàu bị vào nước, và vì không có khả năng cân bằng được nữa, nó từ từ bị kéo nghiêng sang một bên. Đến 14:20, nó lật ngửa trên mặt nước. Những khẩu pháo 3'000 tấn rơi ra khỏi tàu, đạn rơi khỏi khoang và bị kích nổ. Lúc 14:23, một hình nấm lớn bung lên từ con tàu, cắt nó thành 2 mảnh. Vụ nổ lớn đến nỗi 2 chiếc máy bay Mỹ quan sát trên đầu bốc cháy theo.
Sau khi đánh chìm Yamato, các máy bay Mỹ bỏ đi. Ba chiếc khu trục hạm còn lại, tuy bị hỏng, nhưng còn vớt được 280 thuỷ thủ sống sót của Yamato và quay về. Những người này, vì đã không hy sinh trong chiến trận, đã bị đối xử như tù binh sau đó.
Và Yamato, từ niềm tự hào Nhật Bản, trở thành quốc tang.
ngoccup - xcafevn
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)